Hoa trong bão

Tin đồng chí Lương Văn Tri bị địch bắt giam tại nhà tù Cao Bằng… chiều tối, bụng thì đói mà cổ anh nghẹn đắng, dù cố gắng mà không sao nuốt nổi bát cơm. Đêm cuối thu, trời lạnh mà lòng anh như lửa đốt, người nóng bừng như lên cơn sốt, tim đau quặn thắt, phải dùng nghị lực nén chặt cảm xúc của mình lại mà không sao cầm lòng nổi, nước mắt ứa ra, những đồng chí, đồng bào của Bắc Sơn quê hương thân yêu của anh ai còn ai mất?... Đã hai giờ sáng mà anh sao không chợp mắt được. Đồng chí Tổng Bí thư, rồi anh Chính lặng lẽ đến bên giường anh nằm, người sờ trán, người nắm vai… không ai cất nổi một lời, vì mỗi người đều biết rằng, chỉ cần nói một lời sẽ bật thành tiếng khóc… Ba bàn tay tìm nhau, nắm chặt trong đêm đang chuyển dần về sáng như truyền hơi ấm, và sức mạnh cho nhau.

  
 Hình ảnh của đồng chí, đồng bào thân thiết cứ hiện lên trước mắt anh Thụ như đang trò chuyện, tâm tình. Nhớ ánh mắt ngời sáng tin yêu của Ông Cụ ( Bác Hồ ) khi chia tay khen anh Kiên ở Pác Bó về Bắc Sơn với trọng trách mà Đảng giao phó cho anh. Nhớ cuối năm 1934 anh Thụ được Ban lãnh đạo Trung Ương phái ra Hồng Công tham gia chuẩn bị Đại hội lần thứ Nhất của Đảng. Vui mừng được gặp lại đồng chí Lê Hồng Phong, người mà hai năm trước, tháng 3 năm 1932 với tư cách là phái viên Quốc tế cộng sản được cử về với nhiệm vụ khôi phục và phát triển phong trào cách mạng Việt Nam đã bắt liên lạc với Chi bộ Long Châu. Tại đây đồng chí đã trực tiếp bồi dưỡng lí luận cách mạng và phương pháp cách mạng cho các đồng chí Hoàng Văn Thụ, Hoàng Đình Giong và Lương Văn Tri. Sau khi khảo sát tình hình Lạng Sơn, Cao bằng, đồng chí Lê Hồng Phong đã trực tiếp giao nhiệm vụ cho anh củng cố, xây dựng Đảng và phong trào cách mạng ở miền núi biên giới. 

Đồng chí Lê Hồng Phong xiết chặt bàn tay anh và giới thiệu anh với một đồng chí cán bộ trẻ, khuôn mặt tuấn tú, mắt sáng và luôn mỉm cười kín đáo, Phùng Chí Kiên đã tốt nghiệp trường đại học Phương Đông tại Mascơva trở về tham gia công tác lãnh đạo Đảng ở Hải ngoại. Lần đầu tiên gặp nhau hai anh em đã gắn bó mật thiết không chỉ vì sự nghiệp lớn và công việc của Đảng giao phó cho mà còn hợp nhau cả tính tình, tư chất và sở thích. Anh Lê Hồng Phong giao cho hai anh em một khối lượng công việc cụ thể, song có một việc tưởng bình thường mà trở nên rắc rối, đó việc thuê nhà làm trụ sở bí mật đón tiếp đại biểu trong nước ra dự Đại hội. Theo qui quế của chính quyền ở đây chỉ có người đã có gia đình, vợ hoặc chồng mới được thuê nhà, trong khi đó cả hai anh em đều độc thân, tìm đâu cho ra một phụ nữ tin cậy hoàn toàn chấp nhận làm “vợ giả” ở chung một nhà cho mình giữa nơi đất khách quê người này. Thủ tục hôn thú giả thì lo được, còn người vợ giả thì quả bí. Hai anh em định xin ý kiến anh Lê Hồng Phong. Nhưng sau khi giao nhiệm vụ cho anh Thụ về Lạng Sơn thiết lập các trạm liên lạc ở Tân Yên, Thuỵ Hùng, Phú Xá ( Văn Uyên ) để đón đại biểu ở Trạm Một thì anh đã đi Ma Cao kiểm tra công tác chuẩn bị rồi. Hoàn tất công việc ở Hồng Công, chỉ riêng chuyện thuê nhà còn là điểm trắng, người “vợ quý” để có thủ tục hợp pháp để thuê nhà. Trở về biên giới cùng các đồng chí của mình triển khai công việc, anh trao đổi nỗi băn khoăn của mình trong công việc tìm người “đi Hồng Công làm nhiệm vụ đặc biệt” với đồng chí Lương Văn Tri. Nghĩ một chút, anh Tri đề xuất “Hay là đưa cô Mã Thị Phẩy nhà mình đi có được không? Chỉ có cô ấy là tin cậy nhất, lại biết tiếng Quan Hoa…” Ý kiến hay quá. 

Hai anh bàn với Mã Khánh Phương, cô Phẩy và xin phép bà mẹ chuẩn bị cho em gái lên đường đi Hồng Công làm nhiệm vụ cách mạng. Trên đường đi anh tranh thủ bồi dưỡng cho cô em gái những điều cần thiết trong công việc để che mắt bọn mật vụ nước ngoài, tuyệt đối bí mật. Ở Hồng Công, cô Phẩy tiến bộ từng ngày, anh Kiên rất vui vì cô em gái kết nghĩa của anh của anh Thụ khá thông minh và khôn khéo, mọi việc suôn sẻ, cô đã đóng vai “vợ quý” của anh Phùng Chí Kiên “rất đạt” và trưởng thành trông thấy. Anh Lê Hồng Phong cũng khen cô tiến bộ và làm tốt nhiệm vụ đặc biệt của mình… 

Mới chia nhau ở chiến khu Bắc Sơn chưa tròn hai tháng mà anh Kiên đã “đi thật” rồi sao. Anh có cảm giác như bàn tay mềm mại nóng ấm của anh Kiên vẫn nắm chặt tay mình, nụ cười tươi rói, đôi mắt long lanh và tiếng nói ấm áp, trí tuệ và sức thuyết phục vẫn còn âm vang trong tâm trí của mình. Vậy mà anh ngã xuống vào lúc trí tuệ đang sung mãn nhất, sự nghiệp lớn đang cần có những đồng chí như anh biết chừng nào. Anh định bụng sẽ nói với các đồng chí Xứ ủy cho người tìm thi thể anh Kiên không biết địch ném chỗ nào? Đồng bào mai táng cho anh ở đâu? Để khi có điều kiện sẽ đưa thi thể anh về An toàn khu. Anh ngã xuống, Đảng mất đi một cán bộ lãnh đạo xuất sắc, một nhà quân sự giàu tiềm năng, cách mạng và nhân dân mất đi một người con ưu tú … Không! Anh Phùng Chí Kiên vẫn còn, cũng như bao anh hùng, liệt sĩ khác sẽ còn sống mãi trong sự nghiệp đấu tranh, trong sự nghiệp đấu tranh, trong sự nghiệp cách mạng giải phóng của Đảng và dân tộc ta … 

Nỗi đau thấm vào gan ruột, chỉ làm sáng thêm ngọn lửa của ý chý cách mạng, thánh sức mạnh thôi thúc người chiến sĩ cộng sản trong anh vượt lên mọi đau thương mất mát, mọi hiểm nguy đi tới thắng lợi đẻ xứng đáng với biết bao đồng bào đã ngã xuống ngư hoa trái của rừng phải lìa cành trong bão giông tháng bảy vẫn kịp dâng hương và vị ngọt cho đời, vẫn kịp ủ mầm cho triệu triệu mầm xanh, nứt nanh, đâm chồi, nảy lộc hoá thành mùa xuân đất nước. Những công việc cần kíp của cách mạng lại cuốn hút tâm trí anh. Thời gian trước để tránh sự kiểm soát gắt gao của địch, Xứ uỷ phải rời làng Vĩnh Ninh sang làng Tượng Cát. Do có một số cán bộ bị bắt, đề phòng mọi bất trắc, Xứ uỷ chuyển về làng An Mỹ, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh. Nhằm triển khai tốt nghị quyết của Trung ương về công tác binh vận, mà địa bàn trọng yếu trước mắt là Hà Nội và Hải Phòng, sau khi xem xét và cân nhắc, anh chấp thuận đề nghị của Xứ uỷ, chuyển cơ quan trở lại địa điểm sát nách Hà Nội. Công việc êm thấm, tạm biệt anh em cơ quan Xứ uỷ, anh qua Hà Nội xuống đò ngang vượt sông Hồng sang Hải Bối, Đông Anh mở lớp huấn luyện cán bộ Mặt trận và Binh vận của Đảng. Nhớ hôm rời Pác Bó, Bác dặn rất kỹ “Trong bất cứ điều kiện và hoàn cảnh nào cũng phải phát hiện, bồi dưỡng đào tạo, tôi luyện đội ngũ cán bộ của Đảng đủ sức gánh vác nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới”. Chỉ có một từ nôm, nghe thật giản dị và dễ hiểu “đủ sức” của Bác đã hàm chứa biết bao nội dung phong phú mà Đáng yêu cầu ở người chiến sĩ cách mạng, bao gồm lòng trung thành tuyệt đối với Đảng, với dân, phẩm chất, năng lực, trí tuệ, lòng kiên định, ý chý... nghĩa là suốt đời phấn đấu trau dồi, rèn luyện đạo đức, kiến thức để hoàn thành mọi nhiệm vụ Đảng giao phó... 

Trời cuối thu xanh mênh mông, mặt nước sông Hồng mênh mông, dồng nước êm trôi, sóng dào dạt vỗ vào mạn thuyền, khiến tâm hồn anh lâng lâng. Nhìn xuôi về bến Chương Dương, bỗng bài thơ của ông cha xưa ngân vang trong tâm trí anh: 

“Chương Dương đoạt giáo giặc 

Hàm Tử diệt quân thù  

Thái bình nên gắng sức 

Non nước ấy ngàn thu”. 

Ôi! Hồng Hà, con sông lớn của Tổ quốc đă cần mẫn đêm ngày lặng lẽ âm thầm tạo dựng nên châu thổ sông Hồng màu mỡ phì nhiêu, đời nối đời. Ông cha ta bằng mồ hôi, trí tuệ và cả xương máu sáng tạo nên nèn văn minh đồng bằng mà các thế hệ con cháu đã và đang bảo vệ, gìn giữ phát huy tinh hoa đất nước. Ôi! Sông Hồng, nơi đã chứng kiến và lưu trữ trong lòng mình một pho biên niên sử với biết bao sự kiện trọng đại của Đông Đô, Thăng Long, Hà Nội yêu dấu, nơi trung tâm văn hiếnngót ngàn năm của cả dân tộc ta. Nhất định thế hệ của thời đại Nguyễn Ái Quốc sẽ rửa nhục cho đất nước quét sạch bóng quân xâm lươc ra khỏi Hà Nội, ra khỏi non sông yêu quí của ta. Đất Việt ngàn năm tươi xanh và ngát thơm Tình Người lúc nào cũng dang rộng tay đón bạn bè khắp năm châu. Song không bao giờ có chỗ đứng cho quân xâm lược, dù chỉ một tên. Đất Việt đã và mãi mãi là mồ chôn quân cướp nước... Rời thuyền lên bờ Bắc, anh đi trong màu xanh ngát của những nương dâu mà tâm hồn như tiếp nhận được tiếng hát trong như ngọc cua Nguyên Phi Ỷ Lan trong câu chuyện kể của cụ Đám Thi, Đình Bảng nhân ngày lễ trọng ở đền Hồ Lý bát đế (đền thờ tám đời vua nhà Lý)... 

Có tín hiệu khả nghi: bọn mật thám đamg đánh hơi ở Tổng bên cạnh. Lớp huấn luyện rút ngắn, anh dặn dò, xem xét tài liệu, hành trang của từng học viên, lưu luyến tiễn đưa từng đồng chí mỗi người đi một hướng bí mật riêng về cơ sở hoạt động. ai cũng nắm chặt tay người lãnh đạo thân thiết của mình lâu hơn như thay cho lời hứa với Trung ương “Quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ”. Chưa về đến cơ quan, gặp mấy bà con cơ sở ở đầu làng, anh đã linh cảm thấy điều gì không lành. 

Mọi người trong cơ quan vẫn dành cho anh những tình cảm nồng nàn như mỗi chuyến đi công tác về, song hôm nay không khí hơi khác. Nguyễn Văn Minh, người đã từng gắn bó với phong trào Bắc Sơn chỉ kịp nói: “Anh Tri...” thì nước mắt đã dàn dụa. Nguyễn Văn Trangb từ cơ sở ấn loát báo “Giải Phóng” về cơ quan báo cáo công tác cũng vừa tới, biết tin dữ, anh đã lặng đi, tay bịt chặt miệng mình để khỏi bật ra tiếng khóc, nhưng vai cứ rung lên, cổ nấc nghẹn liên hồi...Vậy là đồng chí Lương Văn Tri, người anh em thân thiết, người bạ học chí cốt thuở hiếu thời khổng rời nhau nửa bước, người cùng từ biệt quê hương yêu dấu đi tìm đường cứu nước, người đồng chí kiên trung, tài trí, dũng cảm và mưu lược đã hy sinh tại nhà tù Cao Bằng ngày 20 tháng 9 năm 1941, cùng ngày với bảy chiến sĩ Cứu quốc quân bị giặc xử bắn tại chân đồn Mỏ Nhài, Bắc Sơn... Bằng nghị lực lớn anh đã nén chặt nỗi đau mất mát không gì bù đắp được để đứng vững và an ủi các đồng chí cán bộ trong cơ quan Xứ uỷ. 

Nguyễn Văn Minh tự an ủi mình bằng ý nghĩ “có khi báo nhầm” vì sự thực đã có lần nhận được tin anh Trần Đăng Ninh hy sinh trên đường đi họp ở Trung ương, vài tuần sau lại thấy anh tươi cười trở về với cái gậy lộc cộc đó sao? Trong lòng Minh, anh Tri không thể chết được. Có lần Xứ uỷ cử anh và anh Tri từ ATK sang Hà Nội lúc đó ở Yên Phụ báo cáo tình hình. Đến Hà Nội thì trời đã tối, anh Tri phát hiện có mật thám bám đuôi, anh dặn Minh “bình tĩnh, không cắt được đuôi nó thì rẽ vào ngõ hẻm, nếu khả năng xấu nhất thì anh phải tẩu thoát theo tín hiệu của tôi, còn để tôi xử trí...”. Khi rẽ vào một ngõ hẻm, thì không phải một thằng mà là ba thằng, hai thằng cao to, lực lưỡng, đi theo. Ứơc chừng anh Lương Văn Tri chỉ đứng đến quá vai nó một tý và người nhỏ nhắn bằng già nửa chúng là cùng.

Chúng vượt chặn lại, một thằng quát: 

- Đi đâu? 

- Mẹ tôi vừa tắt thở, tôi sang Hàng Sũ mua áo quan. 

Anh Tri trả lời. 

   - Giấy tờ!

Anh Tri và Minh sờ tay vào túi áo, trong ngõ hẻm ánh đèn đường lờ  mờ… Minh thấy anh Tri bất thần ngồi xuống rồi loang loáng vung tay, móc chân như tia chớp, chỉ nghe bục, bục, hự, hự, hự… ba thằng lăn quay mà không thấy chúng kêu hú,  quát cái gì. Anh Tri nắm tay Minh kéo tuột đi lần sang ngõ khác nói như chẳng có việc gì xảy ra cả: ‘‘Đừng chạy, dễ lộ, nó không kêu nổi đâu, bình tĩnh mà  chuồn…’’. Những đồng chí đã từng được anh Huy (Tri) trực tiếp huấn luyện chính trị và đặc biệt là quân sự ở ATK thì đều biết rất rõ ràng: nếu không bị địch bắn, chỉ tay không, hoặc đao, gậy đối mặt thì dăm, bảy thằng địch tóm được anh là chuyện khó. Anh chăm lo các đồng chí học viên từng ly, từng tý còn hơn cả ruột thịt, con người như anh Tri mà hy sinh thật rồi ư? Nỗi đau lớn quá! Không!Chắc anh vẫn còn. Nguyễn Văn Trang thời gian gắn bó với anh Tri nhiều hơn anh Minh. Anh Thụ đã hai lần vắt khăn mặt ướt lau cho Trang mà anh vẫn nằm sấp trên giường chưa vượt qua cơn choáng váng, vai vẫn rung lên tức tưởi, nước mắt cư trào ra… Khi anh Thụ giúp Trang vượt qua cơn đau mất mát, người Trang rũ như tàu lá chỉ húp được mấy thìa chao rồi lại đi nằm. Hình ảnh Tri, người thầy cách mạng, người anh thân thương ùa về trong tâm trí Trang.

Nhớ lại mùa xuân năm 1936, anh Lương Văn Tri đã bỏ ra cả tháng hướng dẫn Nguyễn Văn Trang học tập nghiên cứu lí luận cách mạng và phương pháp hoạt động trong lòng địch, đặc biệt là rèn luyện thể lực và vũ thuật cho Trang trước khi lên đường về Hà Nội giúp việc tổ chức cơ quan ẩn thoát bí mật của Đảng và bảo vệ anh Thụ trong tình hình diễn biến phức tạp, đang có chiều hướng xấu. Bước sang năm 1938 phong trào cách mạng trong nước gặp nhiều khó khăn, chính phủ Bình dân Pháp ngày càng nhả về phía hữu, đã ban hành những đạo luật chống lại nhân dân các nước thuộc địa, trong đó có nhân dân Đông Dương. Chính phủ phản động thuộc địa ở Việt Nam chỉ cầu mong co thế, và chúng huy động tổng lực thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng đòi giải phóng nhân dân ta.             
Trước những khó khăn đó, tháng 3 năm 1938 Đảng đã họp Hội nghị Trung ương đề ra chủ trương đối phó với kẻ thù, nêu rõ nhiệm vụ trung tâm trước mắt là: Thành lập Mặt trận dân chủ Đông Dương, đồng thời Hội nghị cũng đề ra nhiệm vụ cụ thể: Đảng phải củng cố những cơ sở đã có, lập thêm cơ sở mới, phải chú trọng phát triển cơ sở Đảng ở Châu Thành, các đồn điền và vùng kỹ nghệ tập trung. Hội nghị chỉ rõ: ‘‘ Xứ ủy Bắc Kỳ có nhiệm vụ tối cần thiết là phải len lỏi vào các hầm mỏ và các trung tâm kỹ nghệ, các cơ sở vận tải’’. Thực hiện nghị quyết cua Trung ương nhằm củng cố, giữ vững và phát triển phong trào sau đợt khủng bố trắng lần thứ nhất của địch. Trang được cử đi cùng anh Thụ về các cơ sở Đảng là thời kỳ gắn bó với anh Thụ nhiều nhất, được anh trực tiếp bồi dưỡng và rèn luyện, cũng là thời kỳ Trang thường xuyên thông báo với anh Lương Văn Tri tình hình sức khỏe  và hoạt động của anh Thụ và sự tiến bộ của mình.

Trang nhớ lại hai năm trước, mùa hè năm 1936 được trên cử cùng anh Thụ về xuôi. Về tới Hà Nội hai anh em bắt liên lạc với xứ ủy Bắc Kỳ tại tòa báo ‘‘Tin Tức’’, được tổ chức giới thiệu đồng chí Song số 1 Hàng Mành. Tại đây anh mở hiệu cắt tóc, có khi làm cả ‘‘nghề kéo quạt’’ để che mắt địch hoạt động cách mạng. Một loạt các cơ sở Hà Nội đã chứng kiến và lưu giữ những hình ảnh hoạt động sôi nổi của anh tại Hà Nội từ Nhà băng Đông Dương, đền Ngọc Sơn đến số nhà 42 Bùi Thị Xuân, khu Yên Phụ…

Sau khi củng cố tố chức phong trào của Mỏ than Phấn Mễ - Thái Nguyên vượt qua khó khăn và phát triển đi lên. Trang và anh Thụ về đất mỏ Hồng Quảng. Giữa tháng 05 năm 1938 hai anh em tới mỏ than Hà Lầm, lúc này anh Thụ mang bí danh là Văn Vi, thời gian đầu ở nhà cụ Ngọ (quán nước trên đường Hồng Gai đi Hà Lầm), một quần chúng tích cực giúp đỡ, giới thiệu vào làm công nhân đùn máng than ngay trong mỏ Hà Lầm. Anh tổ chức và lập nhứng nhóm văn hóa, nhóm đọc báo chí hợp pháp của Đảng như tờ ‘‘Tin Tức’’, ‘‘Thế giới’’, ‘‘Dân chúng’’, ‘‘Dân’’… Anh Thụ đã tuyên truyền ý thức cách mạng cho giai cấp công nhân, tạo ra sự chuyển biến và nhận thức tư tưởng trong công nhân để tiến tới xây dựng cơ sở Đảng vững mạnh ở Hà Lầm. Anh đã truyền kinh nghiệm hoạt động quí báu cho các đồng chi cơ sở hoạt động trong điều kiện bị địch khủng bố gắt gao. Sau hai tháng lao động, tổ chức và hoạt động, phong trào Hà Lầmphát triển vững chắc. Tháng 8 năm 1938 anh Thụ về Hải Dương để củng cố và giúp đỡ phong trào sau vụ khủng bố trắng, cơ sở bí mật ở Hải Dương đã bố trí cho anh Thụ ở số nhà 17 phố Đồng Môn, từ đó đi Thanh Hà củng cố ‘‘nhóm thanh niên dân chủ’’, mở lớp huấn luyện cách mạng ngắn ngày cho thanh niên yêu nước. Việc chỉ đạo trực tiếp của anh đã góp phần thúc đẩy phong trào cách mạng Hải Dương đi lên. Sau đó anh đi hoạt động ở Hải Phòng rồi trở về Hà Nội… 

Con người đáng kính trọng và giàu tình yêu thương đồng chí, với bao nhiêu công việc bộn bề lại phải mất thời gian chăm sóc, an ủi mình nữa sao? Anh Tri mất, anh Thụ còn đau đớn hơn cả mình nữa chứ? Nghĩ vậy, bằng nghị lực, Trang nén đau thương vùng dậy, đi rửa mật, vào báo cáo công việc với anh Thụ. 

Công việc lại lôi cuốn anh Thụ vào cơn lốc của cuộc đấu tranh. Phong trào đã và đang được phục hồi, phát triển, tin vui bay về Xứ ủy, về Trung ương nhiều hơn, công tác bình vận, phân hóa lực lượng kẻ thù ở địa bàn Hà Nội. Hải Phòng phát triển khá. Rồi tin vui từ Bắc Sơn bay về khiến anh Thụ trẻ lại, phấn chấn. Cuối tháng 9 năm 1942, một nhóm Cứu quốc quân đầu tiên gồm các đồng chí Hoàng Văn Hán, Dương Công Bình, Hà Châm… đã chở về với nhiệm vụ khôi phục, củng cố, xây dựng các cơ sở quần chúng ở Bắc Sơn – Võ Nhai. Đường giao thông liên lạc do đồng chí Hoàng Văn Kiểu được Đảng phân công phụ trách đã đánh hơi từ biên giới, qua Hội Hoan, Bắc Sơn, Võ Nhai, về trung ương. Song việc phục hồi phong trào ở Bắc Sơn thời kì này còn gặp nhiều khó khăn. Bắc Sơn vừa trải qua cuộc đại khủng bố ac liệt, đẫm máu của địch, phần lớn các cơ sở bị địch phá vỡ, các đảng viên quần chúng, Trung ương bị địch bắt bớ, giam cầm. Nhân dân bị kẹt trong các trại tập trung, trong khi đó địch vẫn thường xuyên tuần tra, canh gác, lùng cách mạng. Tuy nhiên các đồng chí Hoàng Văn Hán, Dương Công Bình đã bắt liên lạc được với một số cơ sở quần chúng cách mạng ở Chiêu Vũ, Hưng Vũ, Nam Nhi (Vũ Lăng), Nghi Viễn. Sau khi toàn bộ Cứu quốc quân trở về nước, phong trào cách  mạng ở Võ Nhai, Đại Từ, Định Hóa, Sơn Dương phát triển mạnh. Do đó tạo điều kiện cho phong trào Bắc Sơn được khôi phục trở lại. 

Các tổ chức quần chúng ở Minh Đán, Xuân Giao, Lương Minh , Nông Lục  (Hưng Vũ), Mai Hin, Tam Hoa (Chiêu Vũ) ở Bắc Sơn được thành lập. Trấn Yên, Quỳnh Dương, Công Bình… bám chắc cơ sở, chỉ đạo phong trào các xã. Quần chúng được tuyên truyền tổ chức vào các đoàn thể Cứu quốc. Phong trào Việt Minh phát triển rộng rãi. Phong trào cách mạng ở Hà Nội, Hải Phòng cũng phát triển ở tầm cao. Địch cũng tăng cường kiểm oát gắt gao và giăng lưới ở khắp nơi chống phá ta. Do bị lộ địa điểm , ngày 25 tháng 8 năm 1943, anh Lý đang nóng lòng chờ liên lạc thì địch ập tới bắt anh tại khu Tám Mái – Hà Nội. Chúng xô lại trói chặt anh, bịt mắt quẳng lên ô tô bịt kín chạy như bay trên đường phố mùa hè nóng bức. Xe dừng bánh , chúng dìu anh xuống, dẫn vào một căn phòng mát rượi, chúng tháo băng bịt mắt, anh thấy tên trúm mật thám La-néc ngồi bên chiếc bàn giấy lớn bóng loáng mỉm cười đắc thắng. 

-Mời anh Lý ngồi, bao nhiêu “cuộc hẹn hò” hụt vậy mà cuối cùng ta lại gặp nhau, hay thật, gặp nhau trong phòng làm việc của tôi, La-néc. 

Bắt được anh kẻ thù vô cùng mừng rỡ, phủ toàn quyền Đông Dương đã ra lệnh cho Sở mật thám bằng bất cứ thủ pháp nào cũng phải moi cho được “yếu nhân cấp cao đặc biệt này”, đây là nhân vật trong cơ quan đầu não của Đảng Cộng sản Đông Dương. Kỳ này phải tóm gọn được giới lãnh đạo tối cao của Cộng sản và đè bẹp phong trào chống đối của dân tộc địa bản xứ. La-néc không úp mở dấu diếm anh ý đồ đó. 

Anh cũng chuẩn bị tinh thần đối phó với con cáo già đã thành tinh này. Hắn đưa bàn tay nhung ra đòn với ngôn ngữ suồng sã để tỏ ra thân thiện. 

- Lý ơi! Mày xa nhà đã gần hai mươi năm rồi. Gia đình mày khát khao được gặp mày lắm đấy. Mày có muốn về nhà gặp bố mẹ mày không? 

- Lâu ngày xa cha mẹ cũng muốn gặp. 

- Vậy mày nói thật đi rồi tao cho gặp. 

Anh nghĩ cần chấm dứt ngay cái trò “đánh vào tình cảm” ma quái   này của hắn, rồi hắn sẽ đưa cả bả vinh hoa phú quý ngay ra cho mà coi. Anh ôn tồn và kiên quyết: 

- Ông bảo tôi nói gì? Công việc tôi làm chắc ông đã biết cả rồi. Hà tất phải nói gì thêm. 

Những cuộc tra tấn dã man, tàn khốc, dùi cui thay cho câu hỏi bắt đầu… 

Các anh Trần Đăng Ninh, Đào Duy Kỳ và một số đồng chí khác bị địch bắt trước, giam tại nhà tù Hỏa Lò nhận ra anh Thụ trong số anh em bị địch bắt hôm ấy bàng hoàng sửng sốt như hụt hẫng. Vậy là Đảng vắng bóng một lãnh đạo ưu tú ở bên ngoài. Đồng chí Đào Duy Kỳ báo cáo với anh một số nét ở nhà tù, tình hình sinh hoạt và tinh thần đấu tranh của một số đòng chí tù chính trị. Anh Thụ dặn anh Kỳ: “Các đòng chí bị bắt vào đây trước đã có được chi bộ, có được chủ trương hành đọng rồi, cứ thế mà làm. Có việc gì, nếu còn ở đây, tôi sẽ góp ý kiến sau”. Mấy anh em Xứ ủy dự định cố gắng tránh cho anh Thụ tiếp xúc nhiều với các đồng chí trong chi bộ nhà tù, vì anh chưa thành án. Càng bớt gây nên sự chú ý , càng có lợi hơn khi anh ra tòa. Song các đồng chí ở trong tù có nhiều người biết anh, nhiều đồng chí đã được anh huấn luyện, đào tạo, nhiều đồng chí từng được trực tiếp công tác với anh trên các địa bàn miền núi, trung du, đồng bằng, nên anh em sà đến săn sóc, hỏi han sức khỏe và tình hình thời cuộc. Theo yêu cầu của anh em, tối nào anh Thụ cũng phải nói chuyện về tình hình thế giới và trong nước… Nhưng anh rất thận trọng. Anh chỉ nói những vấn đề như tình hình chiến thắng của Hồng quân Liên Xô, sự sụp đổ tất yếu của bọn Phát xít, xu thế thời cuộc, những quan điểm lớn mang tính tất yếu , khách quan vè khoa học và cách mạng. Anh tránh nói đến tinh hình cụ thể có liên quan đến phong trào cách mạng  đang bị địch khủng bố dữ dội trong cả nước. Anh đã dành thời gian xem xét kỹ những công việc chi bộ nhà tù đã làm. Anh khuyến khích việc học tập văn hóa, huấn luyện chính trị. Anh khuyên nên mở rộng hơn nữa chương trình học tập chủ nghĩa Mác, anh nói: 

- Đối với anh chị em đã hoạt động cách mạng bị địch bắt tù thì dẫu ở bên ngoài họ có làm xong công việc được giao hay không (trừ một số đã phản bội hoặc có thái độ hèn nhát), còn tất cả chúng ta, muốn hay không đều là tử thù của đế quốc xâm lược. Sau này khi được ra ngoài, những anh chị em này sẽ trở thành cán bộ cốt cán của phong trào. Chúng ta phải tức tốc truyền bá lại những hiểu biết của chúng ta về cách mạng, về chủ nghĩa Mác-Lê nin cho anh em, trong tình hình hiện nay thì phải biến ngay nhà tù đế quốc thành nơi đào tạo cán bộ cho tương lai của Đảng. 

Anh Thụ rất kiên quyết chủ trương cô lập bọn Tờ-rốt-kít. Lúc đó ở Hỏa Lò có tên Lê Cừ đã lãnh đạo bọn “đệ tứ” ở Hà Nội chống lại “đệ tam”, chống lại đường lối cách mạng của Lê nin. Chúng đã lôi kéo được một số thanh niên của chúng ta. Anh Thụ đặc biệt lưu ý đến vấn đề này. Anh cho rằng, hết sức kín đáo, tế nhị, đừng đẩy hắn tới chỗ làm tay sai cho bọn chúa ngục. Nhất là đối với anh chị em thanh niên, học sinh đã bị ảnh hưởng của hắn. Cần phải tranh thủ hết mức dùng quyền lực tập thể để cách ly giữa họ và Lê Cừ. Ngay cả bọn thân Nhật anh đồng ý là phải cô lập chúng, nhưng anh cũng góp ý: 

- Bọn này ta cố gắng cảm hóa chúng, nhận thức sai lầm về sách lược cách mạng. Chúng ta không nên vơ đũa cả nắm, dồn họ vào thế đối lập với chung ta. Việc sử dụng những phương tiện đấu tranh đúng đắn, không những cần thiết cho việc mở rộng lực lượng trong nhà tù, mà còn tác động rộng lớn hớn, lâu dài hơn một khi ta cảm hóa được họ. Qua họ ta có thể cảm hóa được nhiều người khác trong bà con họ Hàng và bạn hữu của họ. 

Các đồng chí trong chi bộ nhà tù tiếp thu sâu sắc từng lời chỉ đạo sâu xa nghĩa cả của anh.

Đêm trước ngày anh Thụ ra tòa, anh em trong tù thao thức không ngủ được, cùng nhau trao đổi tâm sự, anh em đều có chung với nhau một nỗi lo lắng, biết đâu, rất có thể đây là lần sum họp cuối cùng với anh, cũng là cuộc vĩnh biệt người lãnh đạo thân thiết xuất sắc và đầy lòng nhân ái của mình. Một đồng chí không nén được nỗi lo âu bồn chồn hỏi:

- Anh! Liệu có thể thoát được án tử hình không, anh Thụ? 

Thì các cậu thử đoán xem nào. 

Anh em nhường lời cho Đào Duy Kỳ nói nước, anh Kỳ ngẫm nghĩ rồi e dè nói: 

Có lẽ… trong tình hình này, may ra anh sẽ không bị chúng kết án… tử hình. 

Anh Thụ cười và quay ra hỏi các anh em khác, họ đều gật đầu tán thành với dự đoán của anh Kỳ. Anh Thụ lắc đầu và nói một câu ngắn gọn: 

- Các cậu ngây thơ lắm! Nhất định chúng sẽ lấy đầu mình. 

Anh em giật nảy mình, cảm thấy như chính mình vừa nghe bản án đã quyết đó của địch về anh Thụ. Thấy anh em ngồi lặng đi. Anh Thụ cắt nghĩa cho anh em hiểu vì sao anh lại quyết đoán như thế và khuyên anh em đừng bỏ phí những năm tháng ở trong tù, cần tu dưỡng và trau dồi kiến thức cách mạng để dành cho công việc sau ngày tự do… 

Trong những ngày tháng thử thách khốc liệt, tại nhà tù Hỏa Lò này, anh Trần Đăng Ninh, người cán bộ Xứ ủy cách đây hơn 30 năm trước anh Thụ đã thay mặt Đảng cử lên Bắc Sơn cùng đồng chí đồng bào giữ vững phong trào chống địch khủng bố trắng, nay lại ở bên anh chứng kiến và suy ngẫm. Những trận đồn thù diễn ra khủng khiếp với anh Thụ. Chúng đánh trên gác, chúng đánh anh dưới hầm đá, chúng tra ngày, chúng khảo đêm. Nào đòn bộ, nào đòn nước, nào đòn điện. Thân thể anh tơi tả, anh Hoàng Văn Thụ trơ như đá, vững như đồng. Tên đao phủ khét tiếng dã man tàn bạo nhất của phòng nhì Hà Nội, Luýt lồng lên, gầm gừ như chó dại: 

- Thế thì mày ở đâu? Đi đâu? Làm gì? Liên lạc với ai? 

- Tôi thoát ly gia đình từ năm 17 tuổi. Sang Trung Quốc làm thợ rồi làm cách mạng. Không ở nhà ai cả, chỉ ở một chiếc thuyền, liên lạc với anh em cũng ở thuyền.

Số thuyền bao nhiêu? 

- Không nhớ.

Điện, nước, dùi cui thay cho lời hỏi, chúng đánh anh Thụ mà anh Ninh cảm thấy như nó đánh vào chính ngực mình, bụng mình, đầu mình, mặt mình. Giá như chúng cho anh chịu đòn thay anh Thụ, anh sẵn sàng. 

Chúng tra tấn anh hơn hai mươi trận, có tám trận nặng nhất, anh không lê nổi bước chân, phải dìu. 

Mỗi lần bước lên bàn tra tấn, anh rành rẽ với giặc: 

- Đấy nhé! Tôi đã bảo tôi nói hết cả rồi. Nếu các ông đánh tôi mê mẩn, tôi có mê man nói lảm nhảm gì thì những lời nói đó tôi sẽ không chịu trách nhiệm đâu. 

Trong lúc bị tra tấn, giữa tai tua điện hay khi tỉnh, anh Thụ ôn tồn thuyết giặc: 

- Tôi biết các ông chẳng thù oán gì với tôi cả. Các ông chỉ là lưỡi dao mà người khác cầm cán. Nhưng các ông nên hiểu rằng thủ đoạn dùi cui của các ông nhất định không đưa đến sự thật đâu. 

Mỗi lần tập tễnh lên qua các buồng giam đồng chí của mình, anh Thụ tranh thủ nói với vào: 

- Có đau thì cố chịu đựng nhé! 

- Đừng quên Tổ quốc, đừng quên Đảng. 

Lời nhắc nhủ như một lời thề son sắt, truyền cho đồng chí anh em sức mạnh vượt lên mọi đòn tra tấn. 

Sáng sớm ngày 27 tháng 7 năm 1943. Trời Hà Nội âm u, xám xịt và lạnh buốt. Tên chúa ngục Cờ-lê-măng-ti dẫn một tốp lính tới buồng giam áp giải anh Thụ và một số đồng chí, anh em khác ra tòa đại hình. Anh tình thản nghe quan tòa của bộ máy thống trị đế quốc Pháp tại Đông Dương buộc tội. Trong những trang dài mà tòa án đại hình của địch buộc tội, có một trọng tội mà chúng kết luận anh phải chịu trách nhiệm là “Xúi giục dân chúng châu Bắc Sơn nổi loạn chống nhà nước Đại Pháp!” rồi mới đến các “tội phản loạn” khác ở các tỉnh thành Bắc Kỳ.

Chúng vừa dứt lời tuyên tán “xử tử hình” anh Thụ, anh ung dung khoát tay, không thèm bào chữa nửa lời. Anh dõng dạc tuyên bố: 

Trong cuộc đấu tranh sinh tử giữa chúng tôi, những người mất nước và các ông, những kẻ cướp nước, sự hy sinh của những người như tôi là lẽ dĩ nhiên. Chỉ biết rằng, cuối cùng chúng tôi sẽ thắng. 

Cả phiên tòa đại hình của địch chết lặng đi rồi bỗng ồn lên cay cú… 

Quá 12 giờ trưa hôm ấy mới thấy cánh cổng sắt ngoài khu nhà tù chính trị vang lên. Tất cả anh em ra đi buổi sáng đều trở về đông đủ, trừ anh Hoàng Văn Thụ. Tất cả anh em đều đoán biết kẻ thù đã xử anh Thụ ra sao. Nhiều đồng chí, anh em không cầm lòng được nữa bật khóc… 

Những ngày tháng còn lại trong xà lim án chém, mỗi lần đi tiểu, đại tiện hoặc kiếm cớ này khác qua các phòng giam các đồng chí khác, anh Thụ đã dành tất cả những kinh nghiệm quý giá nhất trong bước đường hoạt động cách mạng của mình truyền lại cho các đồng chí. Anh chăm lo sức khỏe cho anh Trần Đăng Ninh và các đồng chí khác, quà bánh, thuốc men anh em gửi đến, bên ngoài gửi vào, anh Thụ chia cho anh Trần Đăng Ninh phần nhiều và bảo: 

- Anh ăn đi, không nên để cho tôi nhiều. Anh ăn có ích hơn tôi. 

Anh đặc biệt chú ý chăm sóc các đồng chí sau những trận đòn thù, các đồng chí yếu đau và lớp trẻ. Với lòng nhân ái lớn lao, anh cảm hóa được cả những viên coi ngục, những con người mà kẻ thù đã biến thành cỗ máy hiện thân của cái ác ở bên cạnh anh. Được tấm lòng bao dung của anh thức tỉnh, nhân tính đã trở lại với họ. Viên gác ngục được lệnh phải cùm anh cả hai châ. Vậy mà anh cảm hóa hắn, hắn kiêng nể anh mà thường thường hắn vẫn để hai chân anh tự do. Thỉnh thoảng hắn mới cùm anh một chân chiếu lệ… Bồi dưỡng chăm lo đồng chí, cảm hóa binh lính địch, anh còn làm thơ nhắn gửi các đồng chí, anh em thân yêu của mình trước ngày ra pháp trường. 

Có những giờ, tháng, năm không thể nào quên.

6 giờ kém 15 phút ngày 24 tháng 5 năm 1944, có tiếng giày đinh lạo xạo ngoài sân nhà tù. Một tốp lính lê dương, súng ống nai nịt, lưỡi gươm tuốt trần. Tên chúa ngục theo một người giám thị vào mở cửa buồng giam anh Hoàng Văn Thụ. Cánh cửa sắt mở, anh Thụ đi ra pháp trường… 

Người giám thị hỏi anh Thụ: 

- Có cần bịt mắt không? 

- Không cần. 

Biết anh Thụ phải “đi” rồi, đồng chí Trần Đăng Ninh hô đến vỡ ngực: 

- Cách mạng Việt Nam thành công muôn năm! 

- Tinh thần Hoàng Văn Thụ bất tử! 

- Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm! 

Sau lời hô, anh Hoàng Văn Thụ nhắn đồng chí Trần Đăng Ninh: 

- Chào anh và gửi lời chào các đồng chí ở lại. 

Dọc đường ra pháp trường anh ôn tồn chào những người giám thị: 

- Thôi, các ông ở lại mạnh khỏe nhé! Tôi đi. 

Đến cửa bồng giấy, mật thám, quan tòa, cố đạo đã đợi anh đông đủ ở đấy. 

Quan tòa hỏi anh: 

- Anh có muốn nói gì nữa không? 

- Không nói gì nữa. Tôi đã nói ở phiên tòa Đại hình của các ông rồi. 

Cố đạo hỏi: 

- Anh có muốn rửa tội không? 

- Cám ơn ông, tôi không có tội. Nếu yêu nước và cứu nước mà có tội thì những người Pháp hiện giờ đang đấu tranh chống Phát xít  bên nước ông đều có tội cả. Ông hãy về Pháp hỏi xem họ có tội không? 

Địch dẫn anh đến trường bắn Tương Mai. Anh nhìn một lần cuối thành phố ruộng đồng của Hà Nội mến yêu. 

Địch đã vội vã ra lệnh lên đạn. Anh nhìn thẳng quân thù dõng dạc hô vang bốn khẩu hiệu: 

- Cách mạng Việt Nam thành công muôn năm! 

- Đảng Cộng sản Đông Dương muôn năm! 

- Liên Xô muôn năm! 

- Đảng Cộng sản Pháp muôn năm! 

Anh ngã xuống ở tuổi 35. Tuổi sung mãn nhất của đời người. Anh đã cống hiến trọn vẹn cuộc đời cho độc lập tự do của Tổ quốc và sự nghiệp giải phóng dân tộc. Nhân cách lớn, lòng nhân ái và tình cảm cao đẹp với trí tuệ và bản lĩnh cách mạng tuyệt vời để lại những tình thương vô hạn cho Đảng, cho dân. Báo “Cờ Giải Phóng” số 5 ngày 14 tháng 6 năm 1944 viết về sự hy sinh của anh Hoàng Văn Thụ có đoạn: “Đảng Cộng sản Đông Dương lặng lẽ chịu một cái tang đau đớn. Dân tộc Việt Nam nghiến răng chịu một vết thương sâu…”

Không! Anh không chết. Anh vẫn còn sống mãi với non sông đất nước ta, với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Một lớp đảng viên Hoàng Văn Thụ đã đứng vững vào vị trí chiến đấu của Anh. Từ các đồng chí trong nhà tù Hỏa Lò đến các đồng chí ở ngoài, trong trái tim mỗi người vẫn ngân vang bài thơ “Nhắn bạn” anh viết trong xà lim án chém:

“Việc nước xưa nay có bại thành

Miễn sao giữ trọn được thanh danh

Phục thù chí lớn không hề nản

Ngọc nát còn hơn giữ ngói lành

Thân dẫu lao tù lâm cảnh hiểm

Chí còn theo dõi buổi tùng hoành

Bạn hỡi xa gần hăng chiến đấu

Trước sau xin giữ tấm lòng thành.”


Tác giả: Nguyễn Trường Thanh 

Đăng bình luận

Mới hơn Cũ hơn