Ruộng lúa nếp Pò Râm (gò mâm) của họ Hoàng trước bản Phạc Lạn tròn như một cái mâm đồng Lớn, lại cấy lúa nếp chẳng khác gì mâm xôi!... Ở bản, ngoài họ Hoàng đông nhất, còn có họ Hà, họ Chu, họ Lâm… Nhưng các họ đều là anh em với họ Hoàng. Nào là thông gia nội ngoại, nào là con nuôi đỡ đầu của họ Hoàng. Vào ngày mùa, ngày tết, giỗ chạp, đám tang, đám cưới, người của mấy họ lại tụ tập như một nhà, lúc đó cả bản thơm lừng hương nếp của xôi cẩm tím biếc, xôi phẩm hồng, bánh chưng, bánh dày, bánh mật…
Ruộng lúa Pò Râm cao ngập đầu người. Bông lúa to, dài, hạt mẩy uốn cong như liềm gặt. Thân lúa nếp cứng, lá nhiều, nên không dùng liềm tạt ngang thân rạ như lúa tẻ, mà dùng hép (mảnh dao con cầm lọt trong lòng bàn tay) ngắt từng bông lúa ngang cuống trần, gần sát bông lúa. Rồi bó lại từng bó tròn xoe ra (gọi là khẩu pặt, phơi trên gác bếp), khi nào ăn mới vò thóc đem xay.
Cậu bé Thụ, khi chiều tắt nắng vừa cưỡi trên lưng ngựa đuổi đàn trâu, đàn bò về chuồng. Từ hai con trâu cái đã sinh nở được bảy con, ba đực, bốn cái, con nào con nấy cũng mập khoẻ. Con nghé đực mới đẻ được ba tháng cứ chạy lon ton theo đàn. Thụ thích nhất con trâu mộng và pu (loại châu đực ngắn sừng, mập khoẻ, hăng húc nhau). Khi nó chưa thiến, nó chuyên đi lang húc nhau. Mắt nó đỏ lừ, đầu nó ngênh ngênh. Nó ngứa sừng húc tung biết bao quãng bờ ruộng. Đầu nó, sừng nó lúc nào cũng lấm đất. Nó đi lang ăn ngô, ăn lúa người ta, làm cho chủ bị mắng, bị đền của. Từ khi bị thiến, nó trở nên hiền lành, kéo cày vẫn khoẻ băng băng… Công chăn đàn bò mới vất vả hơn nhiều. Thả bò trên rừng, lên núi, nó gặm cỏ thì ít mà đua nhau chạy lang thì nhiều. Đàn bò có thể đua nhau đi khắp chín đèo mười suối một ngày. Nên người Nùng có câu sli:
Tu vài quá cức min dằng pải
Tu mỏ quá cức lèn pay đai!...
Nghĩa là:
Con trâu qua vũng nước còn đằm
Con bò qua vũng nước chạy đi không!...
Câu sli vừa nói lên nỗi vất vả của người chăn trâu, chăn bò, cũng vừa là lời ca giao duyên, tỏ tình của người con trai. Một lần, Thụ đón trâu ở rìa nương không để trâu ăn nương đỗ xanh, thấy Mảy đeo nải lên nương hái đỗ chín lứa đầu. Thụ bỗng thấy Mảy đẹp gái hơn mọi khi. Chiếc áo Nùng xanh biếc bó tấm thân Mảy dỏng cao như cây non mói mọc. Khuôn mặt Mảy như quả đào tơ vào mùa chín. Đôi mắt Mảy long lanh như hạt sương hứng nắng vui ấm cả rừng cây. Đôi chân Mảy bước đi nhẹ nhàng, uyển chuyển như con công nhẹ bước trên thảm cỏ… Và rồi như cả rừng cây thức dậy, vang lên ríu rít muôn vàn tiếng chim reo mừng đón Mảy – con chim công xinh đẹp của núi rừng…
Mảy cùng ở Phạc Lạn. Nhà Mảy cách nhà Thụ mấy nhà. Thụ biết Mảy, cũng như Mảy biết Thụ, nhưng chưa hề quen thân. Bởi vì bọn con trai đi học cùng nhau, đùa nghịch cùng nhau, con gái thiệt thòi không được đi học. Nên có sự ngăn cách con trai với con gái. Lần này, gặp Mảy trên nương, Thụ muốn làm quen, Thụ cất lời sli:
Căn ké sleng mà lục là pjai
Vằn kằn cặm chúp pay hen vài
Tu vài quá cức min dẳng pải
Tu mò quá cức lèn pay đai!...
Noọng ơi! Xi lừng thâng pò khỏ
Xứng tín vàm sli tóp có tài!...
Nghĩa là:
Bố mẹ sinh ra anh con út
Ngày ngày cầm nón đi chăn trâu
Con trâu qua vũng nước còn đằm
Con bò qua vũng nước chạy đi không!...
Em ơi! Có thương thân kẻ khổ
Hãy cất lời sli đáp anh trai!...
Mảy dừng tay hái đỗ, cất lời sli:
Mì mò, mì vài hen và khỏ
Lừn noọng làng pjáu mí vài, mò
Lục lừn khỏ khát ti tăn phóc
Hết từ chào sli tóp có tài!...
Nghĩa là:
Có trâu, có bò chăn kêu khổ
Nhà em chuồng rỗng không châu bò
Con nhà ngèo túng thường dốt nát
Biết đâu đặt sli đối đáp anh!...
Thụ lại sli đáp:
Noọng mí vài, mò mì slày đay
Thú kheo slúc đá dăm đin thủn
Cu tan íp thú thủn slắc pày
Noọng ới! mì slim có íp sày!...
Nghĩa là:
Em không có trâu, bò, lại có nương
Đỗ xanh đã chín đen lay láy
Một thân em hái hết sao đành
Em ơi! Vui lòng anh hái giúp!...
Mảy lại sli đáp:
Mi có lao không lăng phát dét
Mí lao thứ théc, pang dò pang
Mí lao thứ tốc lây lồng hát
Mì công, noọng pá đảy còng sinh!...
Nghĩa là:
Nếu anh không sợ còng lưng phơi nắng
Không sợ mồ hôi chảy, thì đén giúp
Không lo mồ hôi trôi xuống thác
Có công, em sẽ trả công!...
Thụ và Mảy có thể sli đối đáp với nhau suốt mấy ngày. Thụ là con thợ nòi thơ ca. Mảy cũng là con nhà nòi sli, lượn. Mẹ của Thụ thuộc làu Truyện Thơ Nam Kinh Thị Đan của dân tộc Tày, thuộc hết Truyện Kiều của dân tộc Kinh, và biết nhiều truyện cổ tích kể mãi không hết, dạy con cái hoàn toàn bằng những câu phương ngôn, tục ngữ. Mẹ của Mảy cũng là người sli giỏi, sli hay. Cái vốn quý đó từ người mẹ đã thấm vào con từ những lời ru con ngủ… Nhưng có phải ngày hội Lồng Tồng mùa xuân, trai tân gặp gái lạ mà sli đối đáp đua tài suốt ngày, đêm!... Thụ giúp Mảy hái đỗ chín trên nương rộng. Thụ, Mảy thân nhau từ đấy.
Tác giả: Hoàng Trung Thu
Đăng nhận xét